Hòa tan lân là gì? Các công bố khoa học về Hòa tan lân

Lân (phốt pho) là nguyên tố cần thiết cho sự phát triển của thực vật, thường có trong phân bón nhưng dạng khó hòa tan, cần cải thiện để tăng hấp thụ. Công nghệ hòa tan lân, dùng axit như sulfuric để tạo MAP và DAP hoặc vi sinh vật như Aspergillus để giải phóng lân, là quan trọng trong nông nghiệp. Nó cải thiện hiệu quả phân bón, giảm ô nhiễm và tăng năng suất cây trồng. Tuy nhiên, cần tránh hại môi trường khi dùng axit, vì vậy sinh học và cơ học đang được nghiên cứu cho giải pháp bền vững. Triển vọng là công nghệ này sẽ trở nên thân thiện và hiệu quả hơn.

Hòa Tan Lân: Khái Niệm và Ý Nghĩa

Lân, hay phốt pho (P), là một trong những nguyên tố cần thiết cho sự phát triển của thực vật, động vật và con người. Trong nông nghiệp, lân là một thành phần quan trọng của phân bón, đóng vai trò chủ chốt trong việc thúc đẩy quá trình quang hợp, hô hấp và trao đổi chất của thực vật. Tuy nhiên, lân thường tồn tại dưới dạng khó hòa tan, đòi hỏi các phương pháp xử lý thích hợp để tăng cường khả năng hấp thụ của cây trồng.

Công Nghệ Hòa Tan Lân

Quá trình hòa tan lân nhằm chuyển đổi các hợp chất lân khó hòa tan thành các dạng có khả năng hòa tan, giúp cây trồng hấp thụ dễ dàng hơn. Công nghệ này thường sử dụng các tác nhân hóa học, sinh học và cơ học.

Sử Dụng Axit

Trong ngành công nghiệp phân bón, axit thường được sử dụng để hòa tan lân. Quá trình này phổ biến với việc sử dụng axit sulfuric, chuyển đổi các khoáng chất phốt phát khó hòa tan thành các dạng dễ hòa tan như MAP (Mono-Ammonium Phosphate) hay DAP (Di-Ammonium Phosphate).

Phương Pháp Sinh Học

Việc sử dụng các vi sinh vật có khả năng phân giải lân cũng ngày càng được chú trọng. Các vi khuẩn và nấm như Aspergillus và Penicillium có thể phân giải các hợp chất phốt phát, giải phóng lân vào môi trường đất, nơi mà cây trồng có thể hấp thụ.

Ứng Dụng của Hòa Tan Lân trong Nông Nghiệp

Hòa tan lân không chỉ giúp cải thiện hiệu quả của phân bón, mà còn giảm thiểu ô nhiễm môi trường do lân không hòa tan trôi nổi trên bề mặt đất và nước. Quá trình này giúp tăng cường sinh trưởng và năng suất cây trồng, đặc biệt là trong các vùng đất nghèo dinh dưỡng.

Thách Thức và Triển Vọng

Mặc dù hòa tan lân mang lại nhiều lợi ích, nhưng việc thực hiện cần cân nhắc kỹ lưỡng về mặt kinh tế và môi trường. Sử dụng quá nhiều axit có thể gây hại cho môi trường đất và nguồn nước. Do đó, các phương pháp sinh học và cơ học đang được nghiên cứu và phát triển mạnh mẽ để tìm ra giải pháp bền vững hơn.

Trong tương lai, với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, quy trình hòa tan lân hứa hẹn sẽ trở nên hiệu quả và thân thiện với môi trường hơn, đóng góp quan trọng vào sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hòa tan lân":

Phân tích chuyển hóa của nhựa gỗ cà chua trong bệnh héo vi khuẩn cho thấy <i>Ralstonia solanacearum</i> sản xuất putrescine dồi dào, một chất chuyển hóa thúc đẩy phát triển bệnh héo
Wiley - Tập 20 Số 4 - Trang 1330-1349 - 2018
Tóm tắtRalstonia solanacearum phát triển mạnh mẽ trong mạch nhựa của cây và gây ra bệnh héo vi khuẩn mặc dù hàm lượng dinh dưỡng trong nhựa gỗ rất thấp. Chúng tôi phát hiện rằng R. solanacearum điều chỉnh cây chủ để tăng cường chất dinh dưỡng trong nhựa gỗ cây cà chua, cho phép nó phát triển tốt hơn từ nhựa cây bị nhiễm so với nhựa cây khỏe mạnh. Phân tích chuyển hóa không định hướng GC/MS đã xác định 22 chất chuyển hóa được làm giàu trong nhựa cây bị nhiễm R. solanacearum. Trong số này, tám chất có thể phục vụ như là nguồn carbon hoặc nitrogen duy nhất cho R. solanacearum. Putrescine, một polyamine không là nguồn carbon hay nitrogen duy nhất cho R. solanacearum, được làm giàu 76 lần lên tới 37 µM trong nhựa cây bị nhiễm R. solanacearum. R. solanacearum tổng hợp putrescine qua enzyme decarboxylase SpeC ornithine. Một đột biến ΔspeC cần ≥ 15 µM putrescine ngoại sinh để phát triển và không thể tự phát triển trong hệ mạch nhựa ngay cả khi cây được xử lý bằng putrescine. Tuy nhiên, việc đồng tiêm chủng với kiểu dại đã cứu vãn sự phát triển của ΔspeC, chỉ ra rằng R. solanacearum sản xuất và xuất khẩu putrescine vào nhựa cây. Điều thú vị là việc xử lý cây với putrescine trước khi tiêm chủng đã tăng tốc sự phát triển triệu chứng héo, sự tăng trưởng và sự lây lan hệ thống của R. solanacearum. Nồng độ putrescine trong nhựa không thay đổi ở các cây được xử lý putrescine, do đó putrescine ngoại sinh có khả năng gây ra bệnh gián tiếp bằng cách ảnh hưởng đến sinh lý cây chủ. Những kết quả này chỉ ra rằng putrescine là một chất chuyển hóa tăng độc lực do mầm bệnh sản xuất ra.
#Ralstonia solanacearum #putrescine #bệnh héo vi khuẩn #xylem #phân tích chuyển hóa #putrescine ngoại sinh #sinh lý cây chủ #tăng độc lực #SpeC ornithine decarboxylase #nhựa cây cà chua.
Tần suất xuất hiện của các chất hướng thần mới trong mẫu sinh học – Tổng quan ba năm về các vụ án ở Ba Lan
Drug Testing and Analysis - Tập 8 Số 1 - Trang 63-70 - 2016
Các chất hướng thần mới (NPS) là thách thức cho các nhà độc chất pháp y và lâm sàng, cũng như các nhà lập pháp. Chúng tôi trình bày phát hiện của mình từ các trường hợp mà các NPS đã được phát hiện trong vật liệu sinh học. Trong khoảng thời gian ba năm từ 2012–2014, chúng tôi đã phát hiện NPS trong 112 trường hợp (trong tổng số 1058 đã phân tích), với 75 trường hợp chỉ riêng năm 2014. Mức độ phổ biến của tất cả các NPS (15,1–17,6%) tương tự như amphetamine chỉ phát hiện được trong 15,1–16,5% trường hợp. Các loại thuốc mới được phát hiện thuộc các lớp sau: cathinones (88%), cannabinoid tổng hợp (5%), phenethylamines (3%), piperazines và piperidines (3%), arylalkylamines (1%) và khác (1%). Các loại thuốc được phát hiện (theo thứ tự giảm dần tần suất): 3‐MMC (50), α‐pyrrolidinopentiophenone (α‐PVP) (23), pentedrone (16), 3',4'‐methylenedioxy‐α‐pyrrolidinobutyrophenone (MDPBP) (12), cannabinoid tổng hợp UR‐144 (7), ethcathinone (5), mephedrone (5), methylenedioxypyrovalerone (MDPV) (4), 4‐methylethcathinone (4‐MEC) (3), buphedrone (3), desoxypipradrol (2‐DPMP) (3), methylone (2) và 2C‐B (2). Trong các trường hợp đơn lẻ, phát hiện 2‐methylmethcathinone (2‐MMC), 2C‐P, eutylone, 25I‐NBOMe, meta‐chlorophenylpiperazine (mCPP), ephedrone, methiopropamine (MPA) và 5‐(2‐aminopropyl)benzofuran (5‐APB). Một NPS là tác nhân duy nhất trong 35% tổng số trường hợp và hai hoặc nhiều NPS có mặt trong 19% các trường hợp. NPS (một hoặc nhiều chất) cùng với các thuốc truyền thống khác (như amphetamine, cannabinoid, cocaine và benzodiazepines) đã được phát hiện trong hầu hết (65%) các trường hợp. NPS thường xuyên được phát hiện trong máu của tài xế lái xe là thách thức cho các nhà độc chất do thiếu dữ liệu về ảnh hưởng của chúng đến hiệu suất tâm lý vận động. Một đánh giá về nồng độ đã cho thấy một dãy giá trị rộng trong các loại trường hợp khác nhau, đặc biệt là lái xe dưới ảnh hưởng của ma túy (DUID) và ngộ độc. Bản quyền © 2015 John Wiley & Sons, Ltd.
#chất hướng thần mới #độc chất pháp y #phân tích sinh học #tài xế dưới ảnh hưởng #NPS #cathinones #cannabinoid tổng hợp #phenethylamines #piperazines #piperidines #arylalkylamines #ảnh hưởng tâm lý vận động #Ba Lan
Prevalence of alcohol and other psychoactive substances in injured drivers: Comparison between Belgium and the Netherlands
Forensic Science International - Tập 220 Số 1-3 - Trang 224-231 - 2012
Đặc điểm của khả năng chống ôxy hóa, độc tế bào, tan huyết khối và ổn định màng của các chiết xuất khác nhau của Cheilanthes tenuifolia và phân lập Stigmasterol từ chiết xuất n-hexane
Springer Science and Business Media LLC - - 2019
Tóm tắtĐặt vấn đềCheilanthes tenuifolia, một thành viên của họ Dương xỉ (Pteridaceae), là loài dương xỉ xanh nhỏ, có thể là nguồn giàu hợp chất sinh học hoạt tính. Nghiên cứu này được thiết kế nhằm điều tra các đặc tính trị liệu của loài này và phân lập các hợp chất hoạt tính sinh học từ các chiết xuất của Cheilanthes tenuifolia.Phương phápBột thô khô của cây được chiết xuất bằng methanol và làm khô bằng máy bốc hơi quay. Chiết xuất tiếp tục được phân chia theo độ phân cực tăng dần: N-hexane < chloroform < ethyl-acetate < methanol theo phương pháp Kupchan được cải tiến. Sau đó, các phần chiết xuất khác nhau được nghiên cứu về đặc tính dược lý của chúng. Các hợp chất được phân lập từ phần n-hexane qua quá trình sắc ký cột, sau đó là TLC và cấu trúc được xác định bằng phân tích mẫu sử dụng 1H-NMR và so sánh với báo cáo hóa học thực vật đã được công bố.
#Cheilanthes tenuifolia #họ Dương xỉ #hợp chất sinh học hoạt tính #chống ôxy hóa #độc tế bào #tan huyết khối #ổn định màng #n-hexane #Stigmasterol #<sup>1</sup>H-NMR #TLC #sắc ký cột #phương pháp Kupchan #phân lập hợp chất
Đặc điểm lâm sàng, X-quang bệnh nhân phẫu thuật nâng xoang hở cấy ghép implant một thì
Nhận xét đặc điểm mật độ xương hàm, dạng sinh học mô mềm, chiều dày và chiều rộng lợi sừng hóa tại các vị trí cấy ghép implant. Nghiên cứu thực hiện trên chùm 24 bệnh nhân được phẫu thuật nâng xoang hở 1 thì cấy ghép 33 implant. Mật độ xương D3 cao nhất chiếm 69,8%, mô mềm dày chiếm 54,5%, mô mềm mỏng chiếm 45,5%, nam có tỉ lệ mô mềm dày cao hơn với 59,1%, nữ có tỉ lệ mô mềm mỏng cao hơn với 54,5%, chiều dày lợi sừng hóa trung bình nhóm răng hàm nhỏ là 2,7 ± 0,7 mm; răng hàm lớn là 3,2 ± 0,3 mm, chiều rộng lợi sừng hóa trung bình nhóm răng hàm nhỏ là 4,1 ± 0,7 mm; răng hàm lớn là 5,2 ± 1,0 mm. Mật độ xương ở vùng phía sau hàm trên chủ yếu là loại D3, chiếm 69,8%. Dạng sinh học mô mềm dày có tỉ lệ cao hơn, chiếm 54,5%. Không có sự khác biệt về dạng sinh học mô mềm ở nam và nữ. Chiều dày lợi sừng hóa trung bình nhóm RHN là 2,7 ± 0,7 mm; ở RHL là 3,2 ± 0,3 mm, Chiều rộng lợi sừng hóa trung bình ở RHN là 4,1 ± 0,7 mm; ở RHL là 5,2 ± 1,0 mm.
#Mật độ xương #dạng sinh học mô mềm #nâng xoang hở #lợi sừng hóa
Phân lập và xác định đặc tính vi khuẩn nội sinh trong rễ cây khoai lang (Ipomoea batatas) trồng trên đất phèn ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 36 - Trang 6-13 - 2015
Ba mươi sáu dòng vi khuẩn được phân lập trên môi trường LGI từ các mẫu rễ cây khoai lang trồng ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Tất cả các dòng vi khuẩn này đều có dạng hình que và có khả năng chuyển động. Thực hiện các phép thử sinh hóa đã xác định được các dòng KL9, KL11, KL39a, KL39b là các vi khuẩn nội sinh có đủ 3 đặc tính tốt là cố định đạm, hòa tan lân khó tan, tổng hợp IAA; Ba dòng KL9, KL39a, KL39b còn có khả năng sản xuất siderofores. Khi giải trình tự đoạn gen 16S-DNA của 4 dòng vi khuẩn này, nhận diện được dòng KL9 có tỉ lệ đồng hình của đoạn gen 16S-DNA với loài Burkholderia sprentiae và Burkholderia vietnamiensis là 99%; tỉ lệ đồng hình đoạn gen 16S-DNA của dòng KL39a với loài Burkholderia ambifaria và Burkholderia vietnamiensis là 99%; tỉ lệ đồng hình đoạn gen 16S-rDNA của dòng KL39b với loài Enterobacter ludwigii và Enterobacter cloacae là 99%; tỉ lệ đồng hình đoạn gen 16S-DNA của dòng KL11 với loài loài Klebsiella pneumoniae là 99%. Bốn dòng vi khuẩn có các đặc tính tốt này được đề nghị đưa vào sản xuất phân vi sinh cho cây khoai lang trồng trên đất phèn vùng Hòn Đất.
#Cây khoai lang #cố định đạm #hòa tan lân #IAA #siderofores #vi khuẩn nội sinh
Tạo chế phẩm sinh học từ giống vi khuẩn Bacillus spp. và Pseudomonas spp. có khả năng hòa tan lân
800x600 Trong nghiên cứu này, tuyển chọn được dòng vi khuẩn Bacillus B68 và Pseudomonas T15 có chỉ số hòa tan lân cao và không gây độc đối với cây trồng. Môi trường nhân giống cấp 1, cấp 2 và chất mang thích hợp cho dòng B68 lần lượt là TSB , RĐ - TB và p hân hữu cơ. Đối với dòng T15, môi trường nhân giống cấp 1, cấp 2 và chất mang thích hợp lần lượt là King’s B , NBRI P - RĐ và phân hữu cơ 75% - cám gạo 25%. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif";}
#Bacillus #hòa tan lân #Pseudomonas
TUYỂN CHỌN VÀ ĐỊNH DANH VI KHUẨN HÒA TAN LÂN NỘI SINH TỪ CÂY KHÓM TRỒNG TRÊN ĐẤT PHÈN TẠI THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 6 Số 3 - Trang 3169-3179 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu nhằm tìm ra dòng vi khuẩn nội sinh có khả năng hòa tan lân khó tan trên đất phèn canh tác khóm tại xã Hỏa Tiến và Tân Tiến, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Từ 42 dòng vi khuẩn hòa tan lân được phân lập từ rễ và thân cây khóm trên môi trường LGI (Liquid Glucose Ivo) và NFB (Nitrogen Fixing Bacteria) tuyển chọn được 20 dòng vi khuẩn có khả năng hòa tan lân trong điều kiện pH 4,50 và chứa độc chất Al3+ và Fe2+ ở nồng độ lần lượt là 100 và 300 mg kg-1. Trong đó, dòng vi khuẩn L-VT08c và L-VT09 có khả năng hòa tan lân sắt, lân nhôm và lân canxi tốt nhất trên môi trường LGI với hàm lượng hòa tan lân lần lượt là 13,6; 26,2; 26,1 mg P L-1 và 16,2; 25,5; 19,7 mg P L-1 và dòng vi khuẩn N-VT06 trên môi trường NFB với hàm lượng 34,5; 6,40 và 60,0 mg P L-1, theo cùng thứ tự. Hai dòng vi khuẩn L-VT09 và N-VT06 được định danh bằng kỹ thuật 16S rDNA là Burkholderia silvatlantica với tỷ lệ tương đồng là 100%.
#Đất phèn #Khóm #Vi khuẩn hòa tan Al-P #Vi khuẩn hòa tan Ca-P #Vi khuẩn hòa tan Fe-P #Vi khuẩn nội sinh
Điều tra và khảo sát tình hình gây hại của sâu đục củ khoai lang (Nacoleia sp.) tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - - Trang 111-119 - 2016
Điều tra tình hình và khảo sát sự gây hại của sâu đục củ khoai lang ở địa bàn huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long được thực hiện từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 6 năm 2015. Kết quả điều tra 97 hộ nông dân cho thấy, nông dân trồng chuyên canh khoai lang chủ yếu với giống khoai tím Nhật với thời gian sinh trưởng từ 130 ≤ 150 ngày. Kết quả phỏng vấn cũng cho thấy, sâu đục củ khoai lang là đối tượng gây hại quan trọng nhất trên khoai lang ở huyện Bình Tân trong thời điểm điều tra. Có hơn 50% trên tổng số hộ được phỏng vấn là không biết về sâu đục củ khoai lang. Số còn lại biết không rõ ràng về đặc điểm hình thái, thời điểm và mùa vụ gây hại của loài sâu này. Nông dân canh tác khoai lang sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trung bình 22,8 lần trên một vụ khoai lang, trong đó thuốc trừ sâu là 15,9 lần, thuốc trừ bệnh là 4,6 lần và thuốc trừ cỏ là 2,3 lần. Qua 13 lần khảo sát sự gây hại của sâu đục củ trung bình có 41,6% củ bị hại trên tổng số củ quan sát. Củ bị hại có tỷ lệ cao nhất là 69% ở thời điểm 91 ngày sau khi trồng.
#Khoai lang #Nacoleia sp. #sâu đục củ khoai lang #tình hình gây hại
Tổng số: 65   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7